ĐIỀU TRỊ BỆNH XƯƠNG KHỚP BẰNG LIỆU PHÁP
PRP- HUYẾT TƯƠNG GIÀU TIỂU CẦU
—————————————————————-
Trình bày bởi:
Giáo sư/ Bác Sĩ: Alper Murat Ulasli
+Từng học: Đại học y Khoa Hacettepe- Ankara- Thổ Nhĩ Kỳ
+ Từng công tác:
– Khoa thấp khớp tại BV khớp, Đại Học New York
– Y Học Vật Lí Trị Liệu và Phục hồi Chức Năng tại Bệnh Viện Đào Tạo và Nghiên Cứu Ankara- Thổ Nhĩ Kì
—————————————————————-
NỘI DUNG CHÍNH:
- PRP là gì? Cái gì không phải PRP
- Tại sao, khi nào sử dụng PRP ?
- Dùng PRP ở vị trí nào trên cơ thể và đối tượng bệnh nhân nào?
- Bao lâu dùng PRP một lần ?
- Cách dùng PRP vào trong cơ thể như thế nào?
- Liều lượng PRP đưa vào cơ thể bao nhiêu là hợp lý ?
- Chăm sóc sau điều trị, tiêm chích PRP như thế nào.?
1.PRP là gì ?
– PRP không phải là một phép thần kì
-Tuy nhiên PRPlà một nhân tố quan trọng và là nhân tố chính yếu trong quá trình tái tạo và lành thương của phần xương, phần sụn, phần dây chằng, gân, cơ, da và kể cả các tổn thương thần kinh.
– Y học tái tạo thì đã xuất hiện công nghệ về PRP từ năm 1980. Hiện nay các nhà khoa học thì đang tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về những chất tăng trưởng, về gen, về tế bào gốc, về những vật liệu sinh học độc lập hoặc kết hợp để thúc đẩy quá trình lành thương diễn ra tốt hơn
– Qua làm việc với trường đại học Colombia nay được đổi tên thành khoa Vật lý trị liêu, Phục hồi chức năng cũng như Y học tái tạo
– Cách mình phải sử dụng máy siêu âm trong tiêm chích để đưa sản phẩm PRP vào. Chúng ta sử dụng máy siêu âm từ việc chẩn đoán đánh giá mức độ nặng nhẹ của vết thương cũng như là để tiêm chích và đưa các chất vào đúng khoang, lớp mà mình cần thiết
– Đây là một báo cáo gần đây nhất của tôi về việc sử dụng PRP tiêm vào phần khớp. Đây là hình hướng dẫn trên siêu âm và tiêm dựa trên hướng dẫn này.
– PRP còn ứng dụng trong lĩnh vực làm đẹp, Các chấn thương do vận động, tập luyện thể dục ở các vận động viên, điều trị tóc cho phụ nữ.
-
Tại sao chúng ta cần sử dụng vật liệu sinh học, sản phẩm sinh học như PRP hoặc những sản phẩm tương tự như vậy?
– Trong quá khứ chúng ta thường sử dụng Steroid để tiêm vào vùng tổn thương hoặc điều trị giảm đau. Tuy nhiên chúng ta đều biết nếu sử dụng Steroid một thời gian sẽ ảnh hưởng đến sụn khớp và chúng ta cũng thấy tác dụng của sử dụng Steroid tại chỗ hoặc toàn thân. Và sau đó mình so sánh với các sản phẩm có yếu tố tăng trưởng hoặc PRP
– Trong một nghiên cứu này, PRP mà đã giảm tiểu cầu kích thích tăng sinh tế bào sụn và ức chế tác dụng phụ của Prednisolon trong vòng 24h sau khi sử dụng
– Nghiên cứu cũng chỉ ra tác dụng phụ của Steroid/ Coticoid khi tiêm vào trong khớp. Và theo nghiên cứu này người ta khuyên nên sử dụng tiêm steroid liều duy nhất và sử dụng liều càng thấp càng tốt Steroid/ Coticoid để tiêm vào những vị trí này.
– Chúng ta đã nói về tác dụng của việc sử dụng Steroid/ Coticoid tại chỗ và tác dụng phụ của giảm đau tại chỗ như vậy nếu kết hợp cả Steroid/ Coticoid và giảm đau tại chỗ thì việc gì sẽ xảy ra. Chúng ta sẽ nhận một tác dụng phụ hết sức nghiêm trọng khi dử dụng kết hợp 2 chất với nhau. Steroid/ Coticoid có tác dụng chống viêm, giảm đau nhưng đồng thời với tác dụng đó nó còn ức chế sự tăng sinh của tế bào sụn và tế bào gân,cơ.
– Tiến trình lành thương thì mỗi loại mô trong cơ thể sẽ có tiến trình lành thương và tái tạo khác nhau, tuy nhiên sự hạn chế về lượng máu cung cấp, lượng máu tới cũng như việc tăng sinh và tái tạo tế bào chậm dẫn đến kết quả sự lành thương và tái tạo mô kém ví dụ vùng gân cơ vùng dây chằng, sụn
– Tiến trình xảy ra trong quá trình lành thương: Những mô thần kinh, mô sụn, mô xương sẽ trải qua hầu hết các giai đoạn của tiến trình lành thương này. Trong quá trình tiêm PRP hay yếu tố tăng trưởng sẽ làm chậm quá trình chuyển hóa và quá trình thoái hóa trong mô của mình. Có rất nhiều loại yếu tố tăng trưởng khác nhau nằm trong tiểu cầu bao gồm yếu tố tăng trưởng mạch máu, yếu tố tăng trưởng thượng bì, yếu tố tăng trưởng mô bì cùng nhiều yếu tố khác.
– Đây là khái niệm về liệu pháp sinh tế bào. Theo thời gian thì có rất là nhiều các sản phẩm về liệu pháp sinh tế bào, đầu tiên sử dụng máu toàn phần, sau đó sử dụng huyết tương tự thân, sau đó tới huyết tương giàu tiểu cầu PRP rồi sợi tơ huyết giàu tiểu cầu PRF, tiếp theo là các chất tăng trưởng. Theo thời gian thì mình còn có những liệu pháp về tế bào gốc tủy xương, tế bào gốc mỡ tự thân, tế bào trong mô cuống rốn, dây rốn, tế bào gốc trung mô.
– Ở đây chúng ta có tế bào gốc trung mô mà không qua nuôi cấy. Thì PRP được định nghĩa là một lượng huyết tương nhỏ nhưng có lượng tiểu cầu rất lớn được thu nhập bằng quay li tâm máu toàn phần. Lý do sử dụng PRP vì nó sẽ phóng thích một mức độ lớn hơn mức sinh lí bình thường các chất tăng trưởng, cytokin trong các hạt anpha của tế bào dựa vào nồng độ tiểu cầu cao. Nhờ vậy kích thích quá trình lành thương cũng tiến trình tái tạo và phục hồi các mô bị tổn thương trong cơ thể. Tiểu cầu sẽ kích thích các mô bị tổn thương tăng sinh bằng cách:
+ Thứ nhất sẽ kích thích quá trình di chuyển đến vùng mô bị tổn thương và kích thích sự tăng sinh của mô sợi, mô sụn, mô xương của những tế bào gốc trong mô này
+ Thứ 2 là kích thích tân tạo mạch máu mới;
+ Thứ 3 là hình thành phản ứng viêm. Khi mà xảy ra quá trình bị thương thì tiểu cầu sẽ kết tập gây ra hiện tượng đông máu đồng thời sẽ được hoạt hóa khi kết tập và giải phóng yếu tố tăng trưởng, và rất nhiều yếu tố tăng trưởng sẽ phục vụ cho những mục đích khác nhau trong cơ thể. Ví dụ VEGF sẽ kết hợp các tế bào viêm làm tăng sinh mô và tăng biệt hóa, VGF kích thích quá trình lành thương, tái tạo mô.
-
PRP được tạo ra như thế nào?
– Đầu tiên máu toàn phần sẽ được thu nhập qua đường tĩnh mạch vào những ống đã chứa chất chống đông. Sau đó những ống này được ly tâm 1 hoặc 2 lần tùy thuộc vào thiết bị mình sử dụng, tiểu cầu sẽ được hoạt hóa trước khi đưa vào cơ thể.
– Nói về quay li tâm 1 lần: Sau khi quay thì ống sẽ tách thành 3 lớp, dưới đáy là hồng cầu, ở giữa là lớp … lớp … ở trên sẽ có bạch cầu và tiểu cầu bám trên đó, còn trên cùng là lớp huyết tương với lượng tiểu cầu rất là ít.
– Nói về quay li tâm 2 lần: Ly tâm lần đầu tiên gọi là quay li tâm nhẹ nhàng thì sẽ tách ra được 3 lớp chúng ta sẽ dùng pipet hoặc ống tiêm để hút phần huyết tương ra cũng như sẽ còn 1 phần hồng cầu trong đó. Phần này sẽ gồm cả huyết tương giàu và nghèo tiểu cầu, bạch cầu và 1 phần nhỏ hồng cầu. Nhưng nếu chúng ta chỉ lượng huyết tương và một phần của lớp buffy coat như vậy sẽ tạo ra sản phẩm không có hồng cầu gọi là PRP
– Một vài sản phẩm khác ứng dụng công nghệ tiểu cầu như PRF (sợi tơ huyết giàu tiểu cầu). Phương pháp tương tự PRP nhưng chúng ta sử dụng các ống không chứa chất chống đông. Mình sử dụng ống thủy tinh không có chất chống đông và sản phẩm cuối cùng mình thu được là các sợi tơ huyết. Nó có thể sử dụng trong nhiều trường hợp. Ví dụ trong lĩnh vực nha khoa nhưng nếu chúng ta loại bỏ đi 1 phần huyết tương trong cục Fribrin này thì chúng ta sẽ được Fibrin cao cấp hơn, và có thể sử dụng Fibrin này trong việc tiêm chích luôn. Một sản phẩm khác của PRP đó là yếu tố tăng trưởng CGF, điều duy nhất khác các loại PRP khác là tốc độ quay li tâm, chúng ta sẽ tạo thành các tế bào có CD34 nhưng chúng ta không biết nó có liên quan đến tế bào gốc tạo máu hay tế bào gốc trung mô không nhưng theo giáo sư nghĩ nó sẽ liên quan đến vấn đề tạo máu. Sản phẩm PRGF (huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng): Có cùng cách làm giống như PRP nhưng mà sẽ dùng chất hoạt hóa sau khi lấy được PRP.
– Cái đặc tính của PRP thu được sẽ phụ thuộc vào: thể tích PRP, hiệu quả của tiểu cầu, mức độ tập trung của tiểu cầu, số lượng tiểu cầu, nồng độ hồng cầu, nồng độ bạch cầu, loại yếu tố tăng trưởng và nồng độ yếu tố tăng trưởng, và một cái rất là mới đó là tỉ lệ của tiểu cầu / bạch cầu. Tất nhiên yếu tố quan trọng nhất là nồng độ của tiểu cầu trong PRP đó.
– Một số nghiên cứu cho rằng là nồng độ nên là trên 1 triệu, người ta nói rằng có thể cao hơn từ 3-5 lần trong máu của mình. Nhưng mình chưa biết là nồng độ nào sẽ tốt nhất cho quá trình lành thương, nhưng có thể là với mỗi nồng độ khác nhau thì sẽ đáp ứng cho nhu cầu điều trị hay cá thể điều trị khác nhau. Tỷ lệ hiệu quả bắt giữ của tiểu cầu bằng tỷ lệ của PRP / tỉ lệ máu toàn phần.
– Một trong những yếu tố cần phải quan tâm đó chính là nồng độ bạch cầu. Và ngày nay chỉ số quan trọng nhất là liều của PRP/ máu toàn phần. Trong những nghiên cứu sâu hơn chúng tôi vẫn đề cập đến tỉ lệ yếu tố tăng trưởng ở trong PRP. Tỉ lệ về những yếu tố tăng trưởng như EGF, VEGF, PGD, TGF-ß1 có liên hệ chặt chẽ với nồng độ của những yếu tố này trong máu, trong tiểu cầu.
– Ngoài ra thì nồng độ bạch cầu trong PRP cũng ảnh hưởng đến chất lượng của PRP:
+ Về quay li tâm thì phụ thuộc vào số lần quay li tâm, tốc độ quay li tâm, lượng G-force là bao nhiêu, thời gian quay li tâm, nhiệt độ khi quay li tâm nó đều có tác động lớn đến sản phẩm PRP tạo ra.
+RCF: ( Lực quay tâm): Không phải lực quay li tâm càng lớn thì sẽ càng cho ra kết quả tốt. Tất nhiên khi mà mình quay li tâm càng lớn thì nồng độ các tố tăng trưởng như VEGF càng tăng tuy nhiên tỉ lệ tiểu cầu sống sót sẽ giảm xuống.
Mục đích sử dụng chất chống đông có 2 mục đích:
+ Thứ nhất là hạn chế tối thiểu sự kết tập tiểu cầu
+ Thứ 2 làm cho tiểu cầu được hoạt hóa khi dùng chất chống đông .
– Tỷ lệ sử dụng chất chống đông thì là theo tỷ lệ 1/9. Tuy nhiên ngày nay có tranh cãi là có nên sử dụng chất chống đông hay không bởi nó sẽ ảnh hưởng đến một số tiến trình.Vừa rồi người ta có 1 nghiên cứu về việc sử dụng nồng độ chất chống đông nào là thích hợp . Thì với loại A thì người ta sử dụng nồng độ chất chống đông nồng độ tiêu chuẩn như mình sử dụng trước giờ như người ta đã nghiên cứu là 0.9ml/ Loại B thì chỉ sử dụng nồng độ chất chống đông bằng 1/2 loại A. Thì nghiên cứu chỉ ra rằng loại B cho ra sản phẩm PRP có nồng độ yếu tố tăng trưởng cao hơn so với loại A.
-Về thành phần tế bào trong PRP và tác động của nó thì sẽ có 3 loại: Giàu bạch cầu, nghèo bạch cầu và hồng cầu có ảnh hưởng gì đến PRP không. Bạch cầu đóng vai trò then chốt trong việc lành thương và đáp ứng lại các yếu tố nhiễm trùng. Tuy nhiên bạch cầu cũng sẽ dẫn đến tổn thương mô và tế bào tại chỗ mà không mong muốn vì có tác dụng phóng thích các yếu tố tiền viêm và yếu tố miễn dịch. Cái lợi ích của việc sử dụng PRP có nhiều bạch cầu là sẽ là tăng phóng thích VEGF là yếu tố chống vi khuẩn và thúc đẩy quá trình lành thương. Tuy nhiên có những tác dụng phụ như tăng phản ứng viêm tại vùng tiêm gây đau, làm tăng quá trình xơ sợi và phóng thích ra cytokin. Tuy nhiên nếu phần PRP mình thu được có đủ lượng tiểu cầu để chống lại những phản ứng từ bạch cầu thì vẫn có thể chấp nhận được sản phẩm này.
– -Tiến sĩ Phillarler và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu về việc so sánh 2 nhóm PRP : 1 nhóm là PRP giàu bạch cầu và 1 nhóm PRP nghèo bạch cầu. Nghiên cứu được thực hiện trên 144 bệnh nhân và theo dõi trong vòng 12 tháng và so sánh kết quả. Kết quả tương đối giống nhau ở cả 2 nhóm tuy nhiên sự khác biệt duy nhất là ở nhóm PRP giàu bạch cầu sẽ bị sưng nhiều hơn và đau nhiều hơn.
– Những nghiên cứu gần đây những cái thành phần không chứa tiểu cầu trong máu toàn phần đóng vai trò như thế nào trong hoạt đông sinh lí của PRP. Cái phần bạch cầu đóng vai trò trong việc lành thương. Cái phần nhiều PRP nhiều bạch cầu sẽ đóng vai trò tăng sinh phóng thích yếu tố tăng trưởng.
– PRP nhiều hồng cầu đóng vai trò trong quá trình đông cầm máu. Khi so sánh các thành phần các yếu tố tăng trưởng ở trong tiểu cầu ở trong 4 nhóm sản phẩm PRP khác nhau. Thấy rằng với PRP giàu bạch cầu thì có nồng độ yếu tố tăng trưởng cao nhất. Đây chỉ là một kết quả trong một nghiên cứu đơn lẻ nên trong thực tế mình không có cần lượng bạch cầu như vậy.
– Nghiên cứu gần đây sự có mặt hồng cầu trong khớp thì nó sẽ dẫn đến tiến trình aboxtocid của sụn khớp ức chế quá trình tổng hợp proteoglycan cũng như làm tổn thương sụn. Tuy nhiên theo một số tác giả khác thì hồng cầu lại cung cấp nhiều oxy và ATP cũng như làm tăng tỉ lệ sống của tiểu cầu trong môi trường ống nghiệm
– Về hoạt hóa tiểu cầu thì giúp phóng thích nhiều nhất các yếu tố tăng trưởng đến mô bị tổn thương. Các yếu tố tăng trưởng thường dùng là Calcium, thrombin, hoặc kết hợp cả Calcium + thrombin. Tiểu cầu được hoạt hóa thì sẽ phóng thích 70% yếu tố tăng trưởng trong 10 phút đầu tiên và sẽ phóng thích hoàn toàn trong một giờ. Vấn đề lượng yếu tố tăng trưởng nhiều như vậy thì có phải là lí tưởng để điều trị hay không.
– Các nghiên cứu trong phòng thì nghiệm thì liều yếu tố tăng trưởng thì không tương đồng hoàn toàn với đáp ứng điều trị. Những nghiên cứu sâu hơn thì nồng độ yếu tố tăng trưởng cao hơn thì cũng không mang lại hiệu quả gì nhiều hơn khi mà những thụ thể trên bề mặt của tế bào cho những yếu tố tăng trưởng chuyên biệt bị chiếm. Thời gian bán hủy của yếu tố tăng trưởng là từ 30 phút tới 7 giờ. Trong điều kiện bình thường thì tiểu cầu tiếp tục phóng thích yếu tố tăng trưởng trong vòng 7 ngày tùy thuộc vào mức mARN của tiểu cầu.
– Đây là một nghiên cứu giữa máu toàn phần căn bản so với huyết tương có tiểu cầu và bạch cầu thì mình sẽ thấy có 1 lượng tăng đáng kể yếu tố tăng trưởng này sau khi hoạt hóa PRP. Các yếu tố tăng trưởng mà được tăng lên như VEGF, HGF, IGF-1, PDGF-AB và EGF. Như mọi người thấy các yếu tố tăng trưởng như IGF-1, PDGF-AB và EGF thì nó vẫn còn tăng lên cho tới ngày thứ 7.
– PRP cũng có tác động chống viêm, điều này có được nhờ sự phóng thích Interleukins và một ở khía cạnh khác người ta cũng khẳng định rằng các yếu tố tăng trưởng trong tiểu cầu cũng không ảnh hưởng trực tiếp đến sự giảm đau, mà thay vào đó là tiến trình giảm đau về mặt thần kinh
– Một nghiên cứu so sánh về sự kháng viêm của PRP và NSAID và Steroids. Kết quả cho thấy thì có sự kháng viêm tương đồng giữa PRP và NSAID nhưng thấp hơn so với Steroid. Cho đến thời điểm này không có sự đồng thuận nào về việc thu hoạch PRP thế nào là tốt nhất và tối ưu nhất. Mỗi các loại sản phẩm PRP khác nhau thì có đặc tính sinh học và thành phần khác nhau. Việc sử dụng bộ kid PRP nào, loại máy nào, số lượng vòng quay cũng như sự xuất hiện của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu hoặc các loại chất chống đông đều có ảnh hưởng đến số lượng, nồng độ hồng cầu bạch cầu tiểu cầu và các các yếu tố tăng trưởng trong sản phẩm PRP cuối cũng mà mình thu nhập được.
– Có 3 yếu tố chính mà mình quan tâm khi đề cập đến một sản phẩm PRP. Đầu tiên là tiểu cầu: DEPA bao gồm các chỉ số là liều tiêm, hiệu quả của tiểu cầu được bắt giữ, độ tinh khiết của tiểu cầu có hay không có bao gồm bạch cầu cũng như phương pháp hoạt hóa được sử dụng.
– Vì vậy các sản phẩm PRP đạt được tỉ lệ AAA nghĩa là có chứa rất nhiều tiểu cầu, dùng để tiêm được (trên 5 tỉ) và có rất ít hồng cầu trong đó cũng như PRP là tối ưu hóa cho những tổn thương nhỏ của tiểu cầu trong máu. Tuy nhiên chúng ta chưa biết được cái điểm AAA là tốt nhất cho điều trị hay không.
-
Khi nào thì mình sẽ tiêm PRP vào trong bệnh nhân.
– Cho đến thời điểm này cũng chưa có sự đồng thuận nào về việc thời gian tiêm hay là pha nào là tối đa trong quá trình lành thương để có thể tiêm. Phần đông thì mọi người sẽ tiêm vào giai đoạn viêm, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tiêm vào giai đoạn tái tạo là giai đoạn cuối cũng trong quá trình lành thương. Điều này phụ thuộc vào thành phần của sản phẩm PRP mà mình thu nhập được. Ví dụ với sản phẩm giàu bạch cầu thì có thể tiêm được trong những giai đoạn cuối hoặc có thể tiêm vi điểm những sản phẩm này có thể tiêm vi điểm sản phẩm này vào trong gân cơ của mình. Tuy nhiên mình được khuyến cáo là không nên sử dụng PRP ngay lập tức sau chấn thương. Vì việc này gây ra tác động có hại cho dây chằng.
– Cả 2 sản phẩm PRP giàu bạch cầu, hoặc nghèo bạch cầu đều có thể giữ trong vòng 4 tiếng ở nhiệt độ phòng. Tuy nhiên chúng tôi không khuyến cáo lưu trữ hơn 6 giờ. Với những bệnh nhân bị tổn thương viêm xương khớp, tổn thương dây chằng gân cơ đều có thể sử dụng PRP. Bênh nhân đã có tổn thương trong ít nhất 3 tháng và bệnh nhân không có bệnh lí đi kèm và bệnh nhân không muốn phẫu thuật.
– Tới thời điểm hiện tại PRP được xem là hiệu quả nhất khi điều trị ở giai đoạn sớm hoặc là mức độ OA thấp. Kết quả sẽ tốt hơn ở bệnh nhân trẻ tuổi với tổn thương sụn ở giai đoạn sớm, và kết quả sẽ tệ hơn nếu bệnh nhân mà đã lớn tuổi.
-
Chống chỉ định khi sử dụng PRP
– Bệnh nhân đang có viêm nhiễm cấp tính
– Bệnh nhân đã được sử dụng kháng sinh
– Bệnh nhân có tình trạng bị giảm hồng cầu hoặc thiếu máu nặng
– Bệnh nhân có tổn thương về hệ miễn dịch, đang tổn thương hóa trị, dùng thuốc ức chế miễn dịch
– Bệnh nhân tổn thương gan, bệnh lí về khớp nghiêm trọng
– Bệnh nhân có thai
– Bệnh nhân có lo lắng về việc tiêm (chúng ta có thể tiêm nhưng cần cẩn thận hơn)
-
Tương tác thuốc
– Những thuốc như là Aspirin, Coraspin, clopidogrel (Plavix), Pioglitazon (Glifix, Dropia) sẽ ảnh hưởng tác động của PRP và làm giảm hiệu quả PRP.
– Warfarin (Coumadin) INR> 2.5 (medication modification might be necessary). Những bệnh nhân mà sử dụng chống đông này mình phải hết sức lưu ý vì bệnh nhân này có thể bị xuất huyết khi mà mình tiêm thuốc.
-
Tác dụng phụ
– Tác dụng phụ nhẹ có thể xảy ra ví dụ chóng mặt nhức đầu buồn nôn, nôn ói, viêm dạ dày, nhịp tim nhanh thì cũng sẽ tự giới hạn. Ngoài ra những đau hay sưng trong buồng tim cũng là những tác dụng phụ nhẹ có thể sẽ gặp.
-
Mình nên tiêm PRP trong bao nhiêu lần?
– Phác đồ thường hay được sử dụng nhất là sẽ tiêm PRP 3 lần cách nhau mỗi tuần và tổng số lần điều trị PRP có thể là từ 1-6 lần. Đối với khớp gối thời gian giữa 2 lần điều trị là từ 1-4 tuần.
– Tùy thuộc vào khớp nào mình bị mà thể tích PRP mình sử dụng có thể từ 3-8ml trong 1 lần.
– Hiệu quả của PRP sẽ kéo dài từ 6-12 tháng.
– Tuy nhiên hiệu quả sẽ phụ thuộc vào mức độ tổn thương, kích thước vùng tổn thương và loại tổn thương là gì.
– Một lưu ý cho tất cả các bệnh nhân sử dụng PRP tiêm vào trong vùng cơ xương không được chi trả bằng bảo hiểm nên bệnh nhân phải tự chi trả.
– Tránh sử dụng các loại thuốc NSAID trong vòng từ 2 đến 6 tuần sau khi thực hiện tiêm. Sẽ sử dung Acetaminophen hoặc Tramadol để giảm đau thay thế cho các NSAID sau khi thực hiện liệu trình này.
-
Khuyến cáo vào ngày mà tiêm thì bệnh nhân
– Bệnh nhân nên có một bữa ăn sáng nhẹ nhàng.
– Tránh bữa ăn quá thịnh soạn, quá béo hoặc là dùng rượu trước khi tiêm.
– Sẽ ngưng sử dụng Aspirin hoặc NSAID 2 ngày trước khi mình tiêm.
– Sau khi tiêm không mang vác nặng, không tạo áp lực nên những vùng cơ thể vừa tiêm
– Có thể sử dụng băng dính quấn vào vùng vửa tiêm.
– Trong trường hợp tiêm vùng chi trên thì mình không có mang mác gì nặng hơn là một cái bàn chải đánh răng, nếu mình đau có thể sử dụng đá chườm lên vùng đau trong vòng 15 phút.
*Những ứng dụng khác của PRP trong lĩnh vực da liễu
– Sử dụng trong trường hợp rụng tóc, trẻ hóa da, nếp nhăn, sẹo hoặc bạch biến. PRP đã được sử dụng với rất nhiều ứng dụng thành công trong lĩnh vực da liễu. Về mặt chứng cứ việc sử dụng PRP hàng tháng với 3 liệu trình thì giúp cải thiện đáng kể về độ dày của tóc, số lượng sợi tóc, đường kính của sợi tóc sau 1-13 liệu trình.
– Hiện nay nghiên cứu về việc có hoạt hóa hay không chưa chứng minh có hiệu quả nào khác biệt trong điều trị rụng tóc. Kích thước của của kim trong thử nghiệm lâm sàng thay đổi tử 25G đến 32G. Cái độ sâu của kim cũng khác biệt nhau, tuy nhiên có sự tăng lượng tóc đáng kể việc sử dụng PRP mỗi 4 tuần so với việc sử dụng PRP trong mỗi 12 tuần.
– Kết quả sử dụng bộ kid T-lab trong điều trị rụng tóc. (hình ảnh)
– Với việc trẻ hóa khuôn mặt thì PRP đã mang lại hiệu quả đáng kể. Đã thực hiện một cái nghiên cứu trên 20 người phụ nữ Châu Á. Có sự cải thiện rõ rệt tái tạo – – vùng da quanh mắt so với việc sử dụng PPP và nước muối sinh lí bình thường. PRP cũng cho thấy nó an toàn hơn và hiệu quả hơn khi so sánh việc sử dụng yếu tố tăng trưởng bên ngoài cho việc trẻ hóa da.
– Kết quả điều trị sẹo mun.
– Sẹo mụn là tổn thương ảnh hưởng cả về tâm lí và thực thể cho bệnh nhân. PRP thể hiện là phương pháp hiệu quả an toàn trong điều trị sẹo mụn mà không phải sẹo lồi. Tiến sĩ Mohd Asif và cộng sự đã so sánh hiệu quả của Microneedling và PRP tự thân trong vùng điều trị về sẹo mụn và cho thấy là PRP có mang lại nhiều lợi ích hơn so với điều tri Microneedling đơn thuần. (Có hình ảnh)
PMC- ACADEMY – ĐỊA CHỈ ĐÀO TẠO DA LIỄU THẨM MỸ UY TÍN TOÀN QUỐC
Địa chỉ công ty: 66 Yên Lãng- Đống Đa- Hà Nội
Email:sunstarsjc@gmail.com
Hotline tư vấn và kích hoạt hóa học: 0914 930 339